Kể từ lần đầu tiên xuất hiện ở La Mã vào khoảng thế kỷ V-IV trước công nguyên với cái tên “contractus” (phát sinh từ động từ contrahere nghĩa là “ràng buộc”) nhân loại đã được biết đến với một trong những chế định quan trọng bậc nhất của xã hội nói chung và nền tảng luật tư nói riêng mà chúng ta thường gọi nó với cái tên “hợp đồng”. Đúng với cái nguồn gốc phát sinh ra nó, hợp đồng ràng buộc sự tự do thể hiện ý chí của các bên lại với nhau để cùng vì một mục đích chung, là trở nên tốt hơn.
Danton có
mười sọt táo trong kho, và cả nhà ông ấy chỉ có thể ăn hết 2 sọt, trong thời
gian ăn hết 2 sọt đó, 8 sọt còn lại sẽ bị hỏng bởi nấm mốc, chuột hay sâu bọ.
Tất nhiên là Danton có thể bỏ chúng vào thùng, lên mem trở thành thứ bia rượu
hảo hạng nhưng như thế sẽ tốn thêm công sức, thời gian mà ông phải dùng để chăm
cho ruộng lúa mới trổ bông. Thế là Danton nảy ra một ý tưởng là mang sang ngôi
làng ở gần đó để trao đổi với mọi người. Sau buổi hôm đó, Danton mang về một
con gà và 3 bao thóc, số lương thực đủ để gia đình Danton tiếp tục no đủ trong
2 tuần nữa và quan trọng, có thể để lưu trữ tốt hơn là 8 sọt táo. Người chấp
nhận 1 con gà và 3 bao thóc là Lucky Luke – ông chủ ở trang trại kế bên, vừa
nhận ra dưới hầm đã hết rượu táo.
Sự trao
đổi trên giữa Danton và Lucky Luke đã ràng buộc sự tư do ý chí của họ với nhau.
Danton đã từ bỏ mọi quyền với 8 sọt táo của mình để chuyển nó lại cho L.Luke.
Và ở chiều ngược lại, L.Luke đã trao mọi quyền với chú gà của mình cùng 3 bao
thóc cho Danton. Cả hai bị “ràng buộc” với nhau bởi một cái bắt tay thể hiện sự
xác nhận của một thoả thuận, mà tại thời kỳ đó chúng ta gọi là một khế ước xã
hội. Điều quan trọng là cả hai thực sự đã tốt hơn, Danton đã xử lý được 8 sọt
táo mà nếu để lại sẽ bị hỏng trong 2 tuần còn L.Luke đã có nguyên liệu để sản
xuất những thùng rượu thượng hạng.
Mùa hè
năm sau đó, Danton và L.Luke gặp lại nhau. Trên xe hàng của Danton vẫn có 8 sọt
táo và lần này có thêm cả 1 bao tải gừng tươi – thứ gia vị quý giá giúp xua tan
đi phần nào sự lạnh giá của mùa đông sắp tới. Danton vui vẻ khi gặp L.Luke.
-
Tám
sọt táo như đã hứa và thêm một bao gừng tươi xứ Rivea.
L.Luke mỉm cười, tung về phía Danton một đồng
bạc trắng và nói:
-
Tôi
sẽ đưa anh một danh sách các thực phẩm cần thiết cho nhà bếp của tôi. Hãy mang
những gì anh có đến đó vào trước mỗi mùa đông, đảm bảo là anh sẽ nhận được một
khoản hậu hĩnh, và đổi lại tôi phải có những nguyên liệu tốt nhất.
Vậy là,
từ một thoả thuận đơn nhất giữa 8 sọt táo với 1 con gà và 3 bao thóc, Danton và
L.Luke đã giao kết một thoả thuận lâu dài với nhau qua từng năm – trước mỗi mùa
đông ở xứ Wales lạnh giá.
Nhiều năm
sau đó là thời kỳ tăm tối của châu Âu khi chịu sự thống trị của Cái chết đen.
Hơn 20 triệu người đã bỏ mạng, lương thực thiếu hụt trầm trọng, tình hình vệ
sinh trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết bởi những người còn sống cũng không còn sức
để dọn những xác chết tràn lan trên đường. Danton lúc này đã trở nên già yếu,
ông nhờ con trai của mình là Danton II tiếp tục mang những nông sản còn sót lại
trong gia đình đến trang trại của L.Luke, chỉ mong đổi lấy chút ngũ cốc cầm hơi
cho cả nhà.
Tới nơi,
Luke chào đón Danton II với một nụ cười bóng nhẫy mỡ lợn. Hắn nói:
-
Thoả
thuận giữa ta và cha ngươi không hề nhắc đến việc uỷ quyền cho người làm việc
thay hắn. Nhưng vì sự bao dung của mình, ta sẽ nhận chút nông sản ít ỏi của nhà
ngươi. Đổi lại, người phải ở lại đây làm nô bộc cho gia đình ta. Nếu ngươi đồng
ý, người của ta sẽ mang 4 bao gạo đến đủ cho cả nhà người sống sót qua mùa đông
tới.
Và chúa
sẽ kể câu chuyện tiếp theo giữa Danton và L.Luke.
Chưa dừng
lại ở đây, nhưng ta có thể thấy, cái cội nguồn của hợp đồng gần nhất với cuộc
sống mỗi chúng ta, nhưng cũng không ngừng biến hoá ra muôn hình vạn trạng qua
từng khoảng thời gian.
Bởi vậy,
nhất thiết cần có sự nghiên cứu, phân tích đánh giá và tổng hợp một cách có hệ
thống tất tần tật những nội dung trên. Với những tinh hoa của hoạt động nghiên
cứu này, chúng ta đưa nó vào một cái tên mỹ miều – Chế định xác lập hợp đồng.
I.
Các
học thuyết cơ bản về xác lập hợp đồng
1.1.
Khi
nào thì một lời đề xuất được xác định là một đề nghị giao kết hợp đồng?
a)
Căn
cứ theo pháp luật Việt Nam
Tại Điều 386
Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Điều
386. Đề nghị giao kết hợp đồng
1. Đề
nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự
ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công
chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị).
2.
Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề
nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị
trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao
kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh.”
Tất
nhiên, việc phân tích độc lập một vài điều luật trong một chỉnh thể thống nhất
không tránh khỏi những thiếu sót. Tuy nhiên, khi mang từng câu chữ trong các
quy định này ra mổ xẻ, chúng ta lại thấy có những khiếm khuyết nghiêm trọng,
tiềm ẩn rủi ro trong việc giải thích và áp dụng luật.
Cấu trúc
tại khoản 1 tạm được hiểu như sau:
Như vậy,
mặc dù mục tiêu đề nghị giao kết của Bên đề nghị hướng đến một hoặc một số chủ
thể rõ ràng; Tuy nhiên, việc thể hiện ra ý định và chịu sự ràng buộc lại chưa
xác định đầu còn lại một cách rõ ràng.
Lấy ví
dụ, anh H có một cái xe máy cũ, muốn bán nó đi để lấy tiền nâng cấp lên xe
Vision 2022 – bản Mùa này tăng giá. Trên thị trường lúc này, ngoài anh K đang
có nhu cầu mua xe ra còn ông B, C, D cũng đang tìm kiếm cho mình một phương
thiện đi lại. Lúc này, có 2 tình huống có thể xảy ra:
-
Trường
hợp 1: H đề nghị bán xe cho anh K. Trường hợp tương đối đơn giản khi chỉ có H
và K ở hai đầu của giao kết. Câu chuyện sẽ là các bên không ngừng thương thảo
cho đến khi có thể chốt với nhau một con số về giá và các điều khoản bổ sung
khác. Tuy nhiên, có 2 vấn đề phát sinh
theo sau đó: Một là H và K sẽ luôn muốn tìm được một người khác, với mức deal
có lợi cho mình hơn ( H muốn một người chịu mua xe với giá cao hơn và K muốn
một chiếc xe tốt hơn hoặc một cái giá rẻ hơn). Bởi vậy, thực tế H và K sẽ đều
mở rộng tập đối tác của mình hơn để tìm kiếm cơ hội khác hấp dẫn hơn. Một trong
số đó là trường hợp 2.
-
Trường
hợp 2: H đề nghị bán xe trên thị trường chung, thông báo được gửi đến đồng thời
cả K và B, C, D. Lúc này, giả sử K, B, C, D đều đồng ý với mức giá đó (ai không
thích có thể ra khỏi thị trường của H) các bên bắt đầu tranh chấp với nhau về
việc H thực sự giao kết với ai và ai sẽ là người được phép giao dịch với H để
lấy chiếc Vision. Bởi vậy, chúng ta đưa ra những tiêu chí để một trong số những
người đó được hưởng đặc quyền duy nhất này. Điều đó có thể căn cứ vào người
đồng ý sớm nhất, người trả giá cao nhất hay người có quan hệ họ hàng gần với H
nhất,… . Chung quy lại, khoản 1 Điều 386 đã đưa ra một quy tắc, rồi bỏ mặc các
bên tự định hình. Phù hợp với tính thần
và mục tiêu mà các nhà lập pháp đã đưa ra từ dự thảo trước đó[1].
Ở khoản
2, việc chỉ quy định trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn
trả lời mà không quy định trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng không nêu rõ
thời hạn trả lời sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau. Cùng thử suy luận để loại trừ
một trong số các trường hợp đó:
-
Thứ
nhất, không tồn tại thời hạn cho bên nhận. Điều này đồng nghĩa với việc bên
nhận chỉ có thời gian để nói có hoặc không, không kịp đến cả việc suy nghĩ, cân
nhắt thiệt hơn trước khi đưa ra một phản hồi phải trả lời ngay cho bên đề nghị.
Điều này xem chừng quá bất công cho bên nhận đề nghị và thực tế hiếm khi xảy ra
trong những giao dịch ngang hàng.
-
Thứ
hai, bên đề nghị không đưa ra một khoảng thời gian hợp lý thì luật pháp sẽ quy
định một khoảng thời hạn hợp lý cho việc đó. Điều này không tồn tại trên thực
tế tính đến thời điểm hiện tại và cũng rất khó có thể xác định khoảng
thời gian hợp lý trên để làm căn
cứ áp dụng.
Về nội dung xác định khoảng thời
gian hợp lý, chúng ta chắc hẳn sẽ luôn băn khoăn xác định Như thế nào là
khoảng thời gian hợp lý? Thời gian hợp lý của H khác gì so với thời gian hợp lý
của K trong trường hợp K là người được nhận quyền mua chiếc xe và với thời gian
hơp lý của cả K và B, C, D trong lúc họ đang thảo luận về quyền ưu tiên? Có
hai cách để xác định điều này: Một là H độc lập đưa ra kèm lời mời đề nghị giao
kết hợp đồng mua bán chiếc xe, hai là để mặc cho đến khi các bên kéo nhau và
toà và để cho thẩm phán M và các Hội thẩm làm việc đó – xác định khoảng thời
gian hợp lý. Cách thứ nhất đề cao sự tự do ý chí, nhưng cũng vô hình chung
không tồn tại động lực đẩy các bên phải quy định về nó; cách thứ hai đảm bảo
một khung pháp lý rõ ràng và sẽ tạo thành án lệ đặc trưng cho các tranh chấp
tiềm ẩn sau này. Nhưng sự xen vào của một cơ quan tài phán, có chăng sẽ làm hạn
chế quyền tự định đoạt của các bên.
-
Như
vậy, điều này chỉ có thể được hiểu là ràng buộc về đề nghị là vĩnh viễn. Nếu
quả thực như vậy, thì điều này không hợp lý bởi hàng loạt sự kiện có thể xảy ra
trong thời gian chờ bên nhận đề nghị phản hồi. Chủ thể không còn tồn tại – ông
H đã bị ốm không còn đủ tính táo, mục đích giao kết không còn – chiếc xe được
gia đình ông H dùng làm phương tiện thay nhau đến chăm sóc cho ông, đối tượng
của giao kết đã thay đổi đặc tính – chiến Vision sáng loáng ngày nào giờ lăn lê
ngoài đường trở nên bụi bặm, bẩn thỉu,… Bởi vậy, việc giới hạn nghĩa vụ nên
được đặt ra cho trường hợp mà bên đề nghị không may quên mất việc đó.
b)
Căn
cứ theo pháp luật Cộng hoà Pháp:
Chế định
hợp đồng được quy định tại Thiên III. HỢP ĐỒNG HAY NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG NÓI
CHUNG thuộc Quyển 3.CÁC PHƯƠNG THỨC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU của Bộ luật
Dân sự Cộng hoà Pháp[2].
Theo đó,
hợp đồng được xác lập và có hiệu lực khi đáp ứng đủ 04 điều kiện chủ yếu sau
đây:
-
Có
sự thoả thuận của các bên cam kết;
-
Có
năng lực giao kết hợp đồng;
-
Sự
cam kết có đối tượng xác thực;
-
Nghĩa
vụ có căn cứ hợp pháp.
Như vậy,
các quy định của Pháp đã đưa ra được các yêu cầu sau: Tự do ý chí, Năng lực chủ
thể, Đối tượng xác thực và căn cứ pháp lý. Theo hướng tạo ra một khung pháp lý
chung cho các thoả thuận để được xác định là đáp ứng điều kiện xác lập hợp
đồng. Điều này làm phát sinh các yêu cầu mới cho kỹ thuật lập pháp.
Đơn cử
như ở điều kiện thứ nhất: Có sự thoả thuận của các bên cam kết. Tuy nhiên, sự
thoả thuận được xác nhận như thế nào?
Có thể
thấy, theo luồng vận hành tư duy như ở trên, có từ 5-6 điểm có thể được xác
định là thời điểm xác lập hợp đồng. Chưa kể ở giữa 2 điểm sẽ là một khoảng
thời gian hợp lý. Như vậy, sẽ rất khó để xác định một điểm trung gian
giữa các Bên trong từng trường hợp cụ thể, bời điểu này phụ thuộc vào tự do ý
chí của các bên trong mỗi trường hợp. Điểm mà các nhà lập pháp chọn cũng sẽ
mang tính tương đối cho từng trường hợp cụ thể nhưng sẽ nghiêng về phía bảo vệ
bên đề nghị hoặc bên nhận đề nghị giao kết.
1.2.
Phân
biệt đề nghị giao kết hợp đồng với lời mời thương thảo hợp đồng?
Tiêu chí đánh giá |
Đề nghị giao kết hợp đồng |
Lời mời thương thảo hợp đồng |
Mục đích |
Thoả thuân
các điều khoản về quyền và nghĩa vụ các bên |
Thoả thuận
về việc sẽ hợp tác để đưa ra các điều khoản làm việc giữa các bên |
Căn cứ pháp
lý |
Điều 386 Bộ
luật Dân sự 2015 |
Căn cứ
chung trong BLDS – không có Căn cứ luật chuyên ngành Điều 19 Nghị định
63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật đấu thầu về lựa
chọn nhà thầu. |
Kết quả |
Giao kết
hoặc không giao kết hợp đồng |
Hợp đồng
hoặc không có hợp đồng |
II.
Một
số án lệ tiêu biểu
2.1.
Tranh
chấp về trách nhiệm bồi thường của Công ty bảo hiểm liên quan đến việc xác lập
hợp đồng.
Ngày
20/12/2011, Công ty Bảo hiểm PJICO Đồng Nike đã gửi cho Công ty Chung Kuo (Sau
gọi tắt là Công ty Chung Của) bản báo giá chi tiết nội dung đơn bảo hiểm cháy
nổ và các rủi ro đặc biệt bao gồm bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và bảo hiểm gián
đoạc kinh doanh để Công ty Chung Kua dịch sáng tiếng Trung và gửi cho Công ty
Huada Furniture (Sau gọi tắt là Công ty Huada). Cũng trong ngày hôm đó, Công ty
Huada chấp nhận và fax lại cho Công ty Chung Của.
Ngày
26/12/1011, Công ty Bảo hiểm PJICO Đồng Nike phát hành Hợp đồng bảo hiểm cháy
và các rủi ro đặc biệt bao gồm bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh số 11/DNI/TSKT/3110/168 và các giấy tờ liên quan.
Nhưng,
Huada chưa ký vì còn bận kháng chiến chống dịch chân tay miệng ở trẻ con và cứu
lũ ở Đồng Bằng Sông Nine Long.
Thế là
điều gì chưa chắc đến thì nó lại đến, ngày 12/01/2012, xảy ra vụ cháy nhà
xưởng, máy móc thiết bị và tài sản khác tại Công ty Huada, nguyên nhân là do
chập điện gây cháy hệt như thông báo của CAH Cẩm Giàng.
Huada đã
thanh toán tiền bảo hiểm rồi nhưng đến lúc đó vẫn chưa ký hợp đồng :v :v Còn
Công ty bảo hiểm thì nhận tiền rồi nhưng nại lý do chưa ký hợp đồng và không
bồi thường thiệt hại.
Vụ việc
đã phải thực hiện tới thủ tục Giám đốc thẩm và chốt lại rằng: “Tòa án nhân dân
tối cao công nhận có sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và
công ty bảo hiểm do việc bên mua đã thanh toán đầy đủ tiền phí bảo hiểm theo
hợp đồng bảo hiểm mặc dù bên mua bảo hiểm đã không ký vào hợp đồng bảo hiểm.”
Tuy
nhiên, câu chuyện khi thực hiện thủ tục thi hành án vẫn còn khiến chúng ta hoài
nghi về chức năng này.[3]
2.2.
Giao
kết hợp đồng trên nền tảng thương mại điện tử.
Trước
đây, Công ước NewYork 1958 quy định thoả thuận bằng văn bản bao gồm điều khoản
trọng tài trong một hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng tài được các bên ký kết
hoặc được ghi trong thư tín trao đổi. Sau đó, Luật Mẫu UNCITRAL 1985 được sửa
đổi bổ sung vào năm 2006 về Trọng tài thương mại quốc tế, theo đó, ngoài thỏa
thuận trọng tài bằng văn bản dưới dạng một điều khoản của hợp đồng hoặc một
thỏa thuận riêng, phương tiện điện tử cũng được ghi nhận giá trị pháp lý.
Cùng với
sự bùng nổ của mạng internet, nhu cầu giao kết hợp đồng trên phạm vi lớn được
đưa lên. Giống như ở ví dụ bán xe của H, nhưng lần này là hàng triệu chiếc i10
trên phạm vi toàn thế giới. Việc chi nguồn lực cho nhân viên gặp từng khách
hàng, tư vấn về từng mẫu sản phẩm và nhận về rủi ro 50-50 trong việc chốt đơn
là điều rủi ro cao ngang với cả chi phí phải bỏ ra. Vậy là, các kỹ thuật viên,
theo yêu cầu của Giám đốc kinh doanh đã đẩy toàn bộ các điều khoản về thoả
thuận, dịch vụ của công ty mình lên trang website của công ty. Khái niệm Browse-wrap
ra đời. Mọi người được tự do đăng nhập trang web, tìm hiểu thông tin, lựa chọn
các mẫu xe và thậm chí, đặt mua xe trên web-site của công ty TNHH H-car. Như
vậy, chi phí cho nhân sự đi tư vấn, chạy KPI giảm đi khoảng 70%. Phần còn lại
phục vụ cho khách đến cửa hàng, cụ ông cụ bà gặp khó khăn trong việc lướt mạng
và thanh toán online. Tuy nhiên, vẫn như vấn đề đã đặt ra ở trên, việc thương
thảo dường như không có, và luồng vận hành quy trình trở nên 1 chiều.
Tuy
nhiên, các rắc rối bắt đầu phát sinh với những trường hợp H-car phải đối mặt
khi xảy ra mẫu thuẫn giữa các tệp khách hàng, khách hàng trên web mới bỏ vào
giỏ, chưa thanh toán trong khi chiếc xe đó đang được sale tại showroom, kết quả
là vị khách hàng khó chịu và phản hồi về việc H-Car làm mất đi cơ hội được mua
xe và yêu cầu phải bồi thường. Phần lớn các nền pháp luật thời đó quy định “Sự
im lặng không được cho là đồng ý” như vậy, việc đơn thuần chỉ là bỏ vào giỏ hàng
của vị khách kia sẽ không được tính là đã giao kết hợp đồng. Khái niệm
Click-wrap ra đời. Mọi giao dịch trở nên suôn sẻ hơn vì vị khách phải click vào
tôi đồng ý mua hàng, chọn phương thức thanh toán và một loại các thủ tục khác
để giao kết hợp đồng được thực hiện. Sau đó, một số vấn đề cũng đặt ra như tính
định danh của các yêu cầu, tính xác thực tại thời điểm ghi nhận hoàn thành xác
lập hợp đồng,…
Hiện nay,
Luật giao dịch điện tử ở Việt Nam yêu cầu các giao dịch này phải được ký bởi
Chữ ký số, nhằm thể hiện sự xác nhận của các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp
đồng. Và sẽ có hàng ngàn khả năng có thể xảy ra trong tương lại tới.[4]
Lời
kết,
Bài
tiểu luận trong một khoản thời gian hạn chế không thể tránh khỏi những sai sót.
Kính mong sự chỉ bảo, hướng dẫn từ thầy cô để người viết có cơ hội bổ sung,
chỉnh sửa cho tốt hơn.
Trân
trọng cảm ơn ./.
[1] Đề cao sự tự do của các chủ thể
trong quan hệ pháp luật dân sự (chưa tìm được nguồn)
[2] Bản dịch của Nhà pháp luật Việt –
Pháp năm 1998, NXB Chính trị Quốc Gia, trang 306.
[3] Xem thêm bình luật của bản án
trong Quyển 1 Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bán án. PGS.TS Đỗ
Văn Đại. NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Link
bài phân tích
Nhận xét
Đăng nhận xét